Hai người này quả là gươm tuốt khỏi vỏ, khí thế căng thẳng.
Cháy thành lây cá chậu, hai vị có thể đừng cãi nhau không?
Một bên là anh khóa trên thời học viện, một bên là sếp hiện tại, tôi thật sự khó xử.
“Không nói gì khác, ‘trước sau’ hai chữ này, Tổng Kỷ chắc nghe qua? Khi tôi và em khóa dưới còn học chung, anh còn chưa biết lang thang gõ code ở đâu.”
Tiêu Nhuận không chịu thua.
Nói cũng đúng, trước khi khởi nghiệp, Kỷ Từ quả thực là một lập trình viên, học chuyên ngành máy tính.
Kỷ Từ nhướng mày, trong mắt toàn là khinh thường:
“Sao anh không kể từ thời người Vân Mưu cho xong? Thật ra nếu nói ‘trước sau’, khi tôi ngồi cùng bàn với cô ấy, anh còn đang nghịch màu ở đâu đó.”
Tôi run tay, suýt làm đổ cốc nước.
4
Đúng vậy, tôi và Kỷ Từ từng là bạn cùng bàn hồi cấp ba, kiểu “nước lửa khó dung”.
Lời nói đó như kéo tôi về quãng thời gian xa xưa.
Tôi và anh thành tích ngang ngửa, vị trí nhất khối luôn do hai đứa thay nhau nắm giữ.
Có lẽ vì là đối thủ, chúng tôi nhìn nhau thế nào cũng chướng mắt.
Anh coi thường tôi tự cao tự đại, tôi lại chê gu thẩm mỹ của anh thảm hại.
Nhưng đến năm lớp 11, khi tôi bất ngờ sa vào đam mê hội họa, xung quanh chẳng ai ủng hộ, chỉ có Kỷ Từ.
Tên này suýt chút nữa kéo cờ gõ trống tiễn đưa tôi.
“Em chuyển qua học nghệ thuật thì chẳng ai tranh hạng nhất với tôi nữa. Tại sao tôi không ủng hộ chứ.”
Chàng trai cúi đầu làm bài trong quyển Năm năm thi – Ba năm luyện, đối mặt với câu hỏi của tôi, chẳng thèm ngẩng đầu.
“Nhưng mà tôi thấy em thật sự hợp với nghệ thuật.”
“?”
Kỷ Từ ngẩng lên, khóe mắt cong cong, lộ ra chiếc răng nanh nhỏ gian xảo:
“Bởi vì cái kiểu mắt mọc trên đỉnh đầu của em giống hệt ông anh họ tôi – một họa sĩ. À, nhắc mới nhớ, dạo này ông ấy đi làm bếp ở tiệm hamburger rồi.”
“…”
Tôi lập tức vung tay cho anh ta một đòn chí mạng.
5
“Vân thanh thanh tựa muốn mưa, sóng nước lăn tăn khói sương bay.”
“Sa mạc khói lẻ loi thẳng tắp, Trường Hà ráng chiều tròn vành vạnh.”
“Trăng sáng soi qua rừng tùng, suối trong róc rách chảy trên đá.”
Họa sĩ có thể vẽ lại cảnh tượng trước mắt, cũng có thể khiến những câu chữ của người xưa tỏa sáng nơi ngòi bút.
Thế giới này có biết bao cảnh đẹp, lại có nhiều người chưa từng được thấy.
Tôi muốn vẽ lại tất cả những cảnh sắc ấy, để càng nhiều người được chiêm ngưỡng.
Thế nên tôi nhất quyết muốn theo học hội họa.
“Hứa Lạc Thần, tuổi trẻ ai chẳng có mơ mộng. Thầy hy vọng em cân nhắc thêm, với thành tích hiện tại, thi vào một trường đại học danh tiếng không thành vấn đề.”
“Cảm ơn thầy quan tâm, nhưng em đã quyết định rồi.”
Trong tiếng thở dài liên tiếp của thầy, tôi bước ra khỏi văn phòng.
Từ nhỏ cha mẹ tôi đã ly hôn, tôi sống cùng mẹ.
Mẹ tôi là thế hệ sinh viên đại học đầu tiên trong làng, còn cha tôi thì đến cấp hai cũng chưa học hết, chỉ là một nông dân thật thà chất phác.
Mẹ tiến thủ, cha bảo thủ. Họ như hai đường thẳng song song vốn chẳng nên giao nhau, lại bị cưỡng ép buộc thành một đôi.
Mẹ thích tranh sơn dầu, cha lại mê tranh dân gian.
Mẹ ăn mặc thời thượng, cha chỉ thích quần áo cũ.
Mẹ say mê piano, cha lại cho rằng kèn sô-na mới thật khí thế.
Cha mẹ đặt đâu, bà mối mai mối, thế là thành một cuộc hôn nhân gượng ép.
Rõ ràng không ai sai, nhưng hôn nhân ấy chẳng có hạnh phúc.
Khi đam mê phai nhạt, hôn nhân chỉ còn lại những mảnh vụn lặt vặt.
Cuối cùng, mẹ đề nghị ly hôn, bà nói ngoài tôi ra bà không cần gì, cha cũng đồng ý.
Sau đó, mẹ sợ tôi chịu thiệt khi có cha dượng, bao năm qua bà chưa từng tái giá.
Ở thời ấy, làng tôi ly hôn vốn đã hiếm, ly hôn rồi không tái hôn lại càng lạ lùng.
Người ta đều nói đàn ông mới là trụ cột gia đình, mẹ tôi chắc không trụ nổi bao lâu. Không biết có bao nhiêu người ngóng xem bà ngã gục.
Nhưng mẹ tôi rất kiên cường, một mình cắn răng nuôi tôi khôn lớn, còn sống một đời đầy phong vị.
“Thần Thần, nhớ kỹ, lời người ngoài là thứ không đáng để tâm nhất. Không ai là con, cũng không ai có quyền định đoạt cuộc đời con. Thứ mà thiên hạ tôn sùng, chưa chắc đã là điều con muốn.”
Đó là câu mẹ thường nói với tôi.
Tôi hiểu mẹ vất vả, nên bao năm qua luôn cố gắng làm một đứa con ngoan.
Học hội họa chính là lần phản kháng đầu tiên trong đời tôi.
“Con thật sự quyết tâm rồi chứ? Sau này nếu vẽ tranh không đẹp như con tưởng, cũng sẽ không hối hận?”
Mẹ vừa khâu lại chiếc cúc áo bị rơi, vừa hỏi. Giọng bà thản nhiên, như thể chuyện tôi muốn học vẽ chẳng khác gì sáng mai tôi muốn uống sữa đậu nành.
“Con quyết rồi, đúng hay sai con đều tự gánh.” Tôi nghiêm túc đáp.
“Vậy thì đi đi, mẹ ủng hộ con.”
Nhìn dáng vẻ nghiêm nghị của tôi, mẹ bật cười:
“Mẹ vui lắm, vì con dám chọn cuộc sống mình muốn. Con mới lớp 11 đã hiểu ra điều mà mẹ phải mất nửa đời mới thấm thía. Mẹ có sự nghiệp riêng, chưa đến lượt con phải nuôi mẹ. Thích gì thì cứ làm, cho dù thất bại vẫn còn mẹ lo cho con.”
Năm đó, tôi đánh cược tất cả để theo hội họa.
Mẹ tôi cũng vậy. Học nghệ thuật rất tốn kém, để tôi được học, bà bán căn nhà nhỏ, rồi cùng tôi thuê một chỗ khác để ở.
Xung quanh ai cũng mắng mẹ theo tôi mà hồ đồ, hệt như năm xưa họ mắng bà không nên ly hôn. Nhưng mẹ chẳng bận tâm, vẫn điềm nhiên sống cuộc đời của mình.
Tôi cũng mặc kệ miệng đời, chuyên tâm học vẽ.
Một ngày nọ, tôi đến cửa lớp thì nghe thấy người ta đang bàn tán về tôi.
“Các cậu nói xem, sao Hứa Lạc Thần bỏ vị trí nhất khối, lại đi học vẽ tranh?”
“Chuyện đơn giản thôi. Nhất khối chắc chán rồi, giờ muốn làm ‘ma vương mỹ thuật’, đi nghiền nát đám học vẽ ấy.”
Một giọng nói châm chọc, khiến cả bọn phá lên cười.
“Tôi thấy không hẳn. Các cậu nghĩ xem, Hứa Lạc Thần đâu có nền tảng hội họa, trong khi người khác học từ bé. Cô ta nhảy ngang sao so nổi? Nước cờ này đi sai rồi, chỉ có thể nói là quá ngông cuồng.”
“Cũng có lý. Tôi nghe nói mẹ cô ta còn bán nhà để cho cô ta học vẽ.”
“Áp lực thế thì lớn lắm. Nghe đâu gia đình đơn thân, cha mẹ sớm đã ly hôn.”
Trong cuộc sống nhàm chán, tin đồn thị phi luôn là gia vị. Nhắc đến chuyện của tôi, cả lớp hứng khởi tán gẫu.
Không sao, tôi hiểu mà.